MÊ THẢO, THỜI VANG BÓNG

(TGĐA) - Mê Thảo, thời vang bóng -- một phiên bản dị ngôn từ chùa Đàn, xuất sắc ngay trong thuật hoán đổi ngôn ngữ biểu đạt giữa nhị loại hình biểu hiện hình tượng khác nhau, lẫn trong nghệ thuật biểu đạt riêng của ngôn ngữ điện ảnh. Bộ phim trưng bày một bài bản dàn dựng lớn, công phu và mang lại thấy luôn luôn thấu triệt đến từng bỏ ra tiết quan tiền trọng của bộ phim, làm nổi bật một cách ấn tượng hồn cốt của Chùa Đàn.

Bạn đang xem: Mê thảo, thời vang bóng


*
*

- Hãng phim Giải phóng sản xuất năm 2002

- Biên kịch: Việt Linh – Phạm Thùy Nhân – Serge Le Peron

- Đạo diễn: Việt Linh

- Quay phim: Phạm Hoàng Nam

- Họa sỹ: Phạm Hồng Phong

- Diễn viên: Đơn Dương vai Tam

Dũng Nhi vai Nguyễn

Thúy Nga vai Tơ

Minh Trang vai Cam

Giải thưởng:

- Giải khuyến khích của Hội Điện ảnh Việt phái nam năm 2002

- Giải nữ diễn viên phụ xuất sắc cho Thúy Nga (tại LHPVN lần thứ XIV, năm 2004 )

- Giải thiết kế mỹ thuật xuất sắc đến Phạm Hồng Phong (tại LHP cả nước lần thứ XIV, năm 2004)

- Bông Hồng vàng tại lễ hội phim Quốc tế Bergamo (Italia) lần thứ XXI, năm 2003

- Giải nhì của Tổ chức liên Chính phủ Francophonie, năm 2003

Tại một buôn bản ấp miền trung du Bắc Bộ thời thuộc Pháp, vị trí người dân siêng nghề nuôi tằm dệt tơ; Nguyễn, chủ ấp, trong lúc khấp khởi chuẩn bị cưới vợ thì cô dâu thiệt mạng vì tai nạn xe cộ hơi. Từ đó, Nguyễn căm hận tất cả mọi thứ liên quan đến cơ khí và nền cao nhã vật chất. Ông chủ ấp Mê Thảo từ đấy tự cách ly mình với thế giới xung quanh, sống chìm vào hoang tưởng, men rượu cùng ảo ảnh về người yêu thương quá cố, bỏ bê mọi công việc. Tam, nguyên can vụ án ngộ sát được ông chủ ấp Mê Thảo bao che, chuyển về làm quản lý trang trại; một lòng phò tá để đền ơn cứu mạng. Tin rằng chỉ có âm nhạc qua lời ca của cô Tơ mới có thể cứu rỗi được Nguyễn, Tam cất công đi tìm người tình tri kỷ cũ của mình. Nhưng điều kiện cô Tơ giới thiệu rất ngặt nghèo: cô chỉ hát khi có người đàn ông sử dụng “cây đàn có ma” vày người chồng quá cố của cô để lại, mà theo lời nguyền thì ai dùng cây đàn đó cũng sẽ phải trả giá bằng cái chết của mình. Tam chấp nhận hiểm nguy để giải cứu ân nhân. Khi tiếng đàn và tiếng hát cất lên, Nguyễn tỉnh ngộ như người ngủ tỉnh giấc, còn Tam thì các ngón tay đều nhuốm đỏ máu lên phím đàn và chết gục trên cây đàn. Người ta võng xác Tam về ấp. Bên trên đường về, gặp cảnh công trường xây dựng đường sắt, Nguyễn lại như điên lên, ra lệnh khai quật và đập phá hết các vò rượu đã được chôn cất trước đó, rồi tuyệt vọng nhảy vào đám lửa tự sát trước cái nhìn nhức đớn và bất lực của Cam – cô gái câm giúp việc từng yêu thầm nhớ trộm ông chủ.

*****

Cùng khuynh hướng kỳ bí, ma quái hóa hình tượng miêu thuật như nhà văn nước trung hoa Bồ Tùng Linh đã từng thể hiện vào Liêu trai chí dị vào giữa thế kỷ 17-18, cũng như nhà văn vẻ Kỳ Edgar Allan Poe đã từng sáng tạo vào chuỗi truyện ngắn của ông vào giữa thế kỷ 19 -- vào năm 1945, tại Hà Nội, nhà văn Nguyễn Tuân đã ấn hành truyện ngắn đạt tới trình độ cao tay trong nghệ thuật biểu đạt bao gồm tựa đề chùa Đàn. Chùa Đàn là thiên truyện hoang đường, nhuốm màu hoang dị cuối cùng vào sáng tác của nhà văn; với giọng tả và lối dẫn chuyện kỳ ảo, mông lung; khiến ấn tượng khác thường ; vừa lạ lẫm, vừa kỳ thú khó tả.

Mê Thảo, thời vang bóng -- một phiên bản dị ngôn từ chùa Đàn, xuất sắc ngay trong thuật hoán đổi ngôn ngữ biểu đạt giữa nhì loại hình biểu hiện hình tượng khác nhau, lẫn vào nghệ thuật biểu đạt riêng biệt của ngôn ngữ điện ảnh. Bộ phim trưng bày một bài bản dàn dựng lớn, lao động và đến thấy luôn luôn thấu triệt đến từng đưa ra tiết quan trọng của bộ phim, làm nổi bật một cách ấn tượng hồn cốt của Chùa Đàn. Những gì người đọc truyện hằng mường tượng, hằng phỏng suy, nay được trực tiếp chứng kiến, chiêm nghiệm cụ thể, sinh động, qua sắp đặt của đạo diễn. Chủ đề, tư tưởng, cốt lõi nội dung cùng đường dây dẫn chuyện của thiên truyện được các tác giả phim đặt gọn lên form khổ của tác phẩm điện ảnh dài gần 2 tiếng đồng hồ. Bộ phim như dung chứa cả một thời đại vào đó, dẫn dụ nhiều luồng suy tư phong phú, khác biệt nhau. Với cốt truyện có đường dây cấu trúc theo trục thẳng, ít nhánh phụ, câu chuyện phim lôi cuốn người coi bằng hàng loạt đưa ra tiết và sự kiện khác thường, phủ đậm bóng hoang đường, có thể khó tin tuy vậy dễ dàng bị thuyết phục. Qua phim, người coi trở lại với miền trung du Bắc bộ thời thuộc Pháp, với hình ảnh vừa lạ vừa quen thuộc của những chùa chiền, cửa nhà, đồi núi, hồ sông, những tập tục với dấu ấn văn hóa một thời, qua các lễ hội cũng như qua tập tục sinh hoạt của người dân. Nhờ thu lượm và thể hiện khá đầy đủ, phong phú các loại công cụ sinh hoạt cũng như phản ánh đa diện quang cảnh xã hội đương thời, Mê Thảo, thời vang bóng như kho tứ liệu quý về lịch sử và dân tộc học. Vào quá trình chuyển thể, các tác giả phim đã ráng đổi một số chi tiết từ truyện ngắn, như đổi thương hiệu chủ ấp Mê Thảo vốn là Lãnh Út, thành Nguyễn và thương hiệu người quản lý vốn là Bá Nhỡ, thành Tam. Nhị cái tên mới này dễ nhớ và phù hợp hơn với diễn đạt điện ảnh. Ngoài ra, nhân vật cô gái câm có thương hiệu là Cam – người giúp việc tận tụy và là kẻ tương tư đối chọi phương ông chủ ấp, đã được thêm vào. Đây là một sáng tạo có giá, làm ngày càng tăng chiều sâu bốn tưởng cùng giá trị nhân văn của tác phẩm. Bằng một ngôn ngữ nghe nhìn chắt lọc, hàm súc và đa nghĩa; bộ phim chẳng những cơ bản tái hiện hùng hồn và sinh động, mà còn nâng tầm thiên truyện bất hủ lên.

Câu chuyện phim được triển khai bên trên nguyên lý cơ chế tự sự, có khả năng trực tiếp chi phối hệ thống sự kiện cùng các mối quan hệ nhân quả của chúng. Hình thức tự sự được tác giả chọn lựa tuân thủ theo đúng quy tắc của cấu trúc “đóng”, vào đó các sự kiện quan tiền trọng được chốt đóng trước lúc khai triển các đường dây câu chuyện chuyển phiên quanh chúng. Vào phim, có bố sự kiện trung tâm chi phối các tuyến phát triển cũng như hành động của nhân vật. Đó là vụ ngộ sát vị Tam gây nên - từ đấy được Nguyễn bít chở và trở thành người thân cận với ông chủ ấp; tiếp sau là vụ người vợ yêu sắp cưới của Nguyễn bị chết bởi tai nạn xe cộ hơi - từ đó biến đổi hoàn toàn con người và cuộc sống của Nguyễn, và cuối cùng là việc Tam tổ chức cuộc diễn tấu định mệnh, hằng mong muốn cứu sống ông chủ ấp. Thủ pháp tạo ra các sự kiện trung chổ chính giữa làm động lực triển khai cốt chuyện, thường rước đến đến tác giả lợi thế có thể thúc đẩy xung đột cấp tốc chóng đạt tới đỉnh và dễ dàng tạo ra bùng nổ. Mặt khác, khi nguyên nhân sự cố đã được xác định chắc chắn, người xem dễ dàng bị thuyết phục hơn; và nhờ đó, giá trị chân thực của câu chuyện phim cũng dễ dàng được nhìn nhận hơn. Cấu trúc đường dây dẫn chuyện của bộ phim thuộc loại đơn tuyến, kết nối trực tiếp các mảng truyện vị diễn tiến của các sụ kiện trung trung ương bung nở ra. Thủ pháp diễn thuật dựa theo cấu trúc đường dây này mang lại sự giản dị, mạch lạc, thâm nám thúy, dễ tác động trực tiếp đến trung tâm lý và cũng dễ tạo cơ sở bộc lộ chân tướng hoàn cảnh kịch, mà trong đó, nhân vật hành động.

Các hình tượng nhân vật chủ chốt được xây dựng theo những đặc điểm khác thường: trước hết là cố tạo ra sự phụ thuộc hoàn toàn vào các chốt sự kiện cũng như hoàn cảnh đặc trưng mà tác giả đã cài đặt sẵn; tiếp đó là bố trí để bản tính, khí chất của nhân vật luôn luôn có xu hướng cực đoan và luôn luôn hướng nội, phớt lờ mọi xung động bên ngoài; cuối cùng là tìm cách ném nhân vật vào giữa vòng xoáy của những tình huống, tình thế đặc biệt bất lợi, nhằm buộc nhân vật bộc lộ tối đa đặc tính riêng, từ đó vẽ ra những khuôn mẫu sống và hành động khác thường, cách biệt với cuộc đời thực. Nhân vật Nguyễn vốn là một đàn ông thông thái, giàu lòng vị tha, sẵn sàng bao giúp mọi người, trong đó có Tam khi anh ta phạm tội ngộ sát. Nhưng mà rồi chỉ vì cái chết của người vợ chưa cưới, vì tình yêu mộng tưởng sâu nặng, mà biến thành một bé người khác hẳn, đột biến vào mọi suy nghĩ cũng như hành động. Sự biến khác dị thường ấy của Nguyễn bỗng chốc trở thành động lực tác tạo ra các chuỗi quan hệ mới cũng như cấu trúc mới mang đến câu chuyện phim. Từ đây, hệ thống xung đột được châm ngòi, phát tác mạnh mẽ trải qua loạt đưa ra tiết với dấu ấn nhân sinh sâu sắc. Cảnh Nguyễn âu yếm vuốt ve hình nộm người yêu vào háo hức và tuyệt vọng, và sau đó, vào cảnh anh ta mơn trớn làm tình với bức tượng gỗ được ảo vọng là vợ mình ko chỉ là hành động mê muội của kẻ cuồng ái, mà còn mang đến thấy đặc tính cố chấp cực đoan của nhân vật. Mặt cạnh Nguyễn là Tam, người quản lý chu tất, một lòng một dạ phụng sự chủ. Tam cũng là mẫu người đặc biệt, được xây dựng trong khuôn mẫu cực đoan vốn là phong cách miêu thuật có sẵn từ thiên truyện ngắn. Lúc biết rằng chỉ có thể cứu rỗi Nguyễn bằng tiếng hát của Cô Tơ, cho dù lúc đầu bị cô ta từ chối và mang lại dù sau đó biết rằng chính mình phải dùng cây đàn “có ma” để hòa khúc cùng người hát, và kết cục sẽ hết sức thê thảm, Tam vẫn quyết chí thực hiện bằng được. Lời của Tam mang lại thấy ý chí đó: “Đời tôi như cây đàn, thà một lần vang lên tan nát những thanh âm còn hơn là lặng lẽ suốt đời!”. Sự có mặt của Tam mặt cạnh Nguyễn giống như một sắp đặt định mệnh. Nhì cá tính này như nhì dòng chảy cùng nhau. Nếu dòng chảy này cản trở, phá lối dòng chảy kia, nếu Tam cưng cửng quyết cản phòng sự trái tính của Nguyễn, thì sóng sẽ nổi lên – xung đột đối kháng sẽ phát sinh; và câu chuyện sẽ được dẫn đến một kết cục sở hữu tính hành động thông thường. Dẫu vậy nếu ngược lại, tạo ra dòng chảy thuận hòa và Tam chịu cung phụng Nguyễn thì kết quả mà câu chuyện phim lấy lại sẽ với tính bi kịch sâu sắc, như ta đã chứng kiến. Một nhân vật khác, tuy không giữ vai trò chính yếu mà lại không thể thiếu và đã để lại những cảm xúc sâu lắng đặc biệt. Đó là cô câm giúp việc tên Cam – một hình tượng được sáng tạo vào quá trình chuyển thể thiên truyện. Với một trọng điểm hồn vào sáng, một trái tim thuần phát, chân thành, Cam thầm yêu thương trộm nhớ solo phương và luôn luôn tìm cách bít chở ông chủ ấp Mê Thảo. Tuy nhiên le cô luôn bị phản thùng. Điều đó tạo phải tấn bi kịch trọng điểm trạng khó thể giãi bày. Việc quy định Cam bị câm là một lựa chọn tốt, bởi chính cái sự câm ấy đã giúp tác giả dễ dàng rộng trong việc xử lý nhiều tình huống liên quan đến nhân vật. Vào trường cảnh Cam kéo bức tượng gỗ mà Nguyễn đã từng làm tình vứt ra sông, sau đó là cảnh chính Cam bị nhốt vào rọ vứt ra sông theo lệnh Nguyễn; xen giữa nhị cảnh đó là chuỗi cảnh Cam tưởng tượng về một lễ cưới lịch sự trọng giữa nàng với Nguyễn… Trường đoạn này đã tạo ra mối xung đột cảm xúc vô cùng tinh tế, sắc nhạy và được đẩy lên rất cao trào bằng thủ pháp kích hoạt trọng tâm lý đồng cảm.

Hiệu quả diễn xuất của các diễn viên khá đồng đều. Dũng Nhi (vai Nguyễn) thể hiện nổi bật sắc thái nửa tỉnh nửa mê của kẻ ham mê tình hoảng loạn, đã ứng phó linh hoạt và tự chủ trước các tình huống phức tạp khác nhau, qua diễn biến phức hợp của nhân vật. Đơn Dương (vai Tam) mặc dù có ngoại hình và phong thái quá thư sinh, không hoàn toàn khớp hợp với vai diễn; cũng đã thể hiện khả năng ứng phó chuyên nghiệp của mình, đặc biệt trong trường đoạn cùng cô Tơ diễn tấu khúc chầu văn ở cuối phim. Minh Trang (vai cô Cam) đã chọn lối diễn chân mộc pha chút u đần lẫn yêu thương cảm, làm nổi bật một thân phận thật đáng tiếc, đáng thương. Vày câm, mọi trạng thái trung tâm lý của nhân vật đều đòi hỏi phải được bộc lộ qua cử chỉ tế vi cũng như hành động có khả năng thay lời. Minh Trang hoàn thành tốt đòi hỏi này. Thúy Nga (vai cô Tơ) tuy tần suất xuất hiện ít, vẫn để lại ấn tượng nao lòng qua nghệ thuật diễn cảm đầy căng thẳng, xúc động vào buổi diễn tấu định mệnh ở cuối phim.

Xem thêm: Nên Làm Sinh Trắc Vân Tay Hà Nội, Dịch Vụ Làm Sinh Trắc Vân Tay Uy Tín Tại Hà Nội

Mê Thảo, thời vang bóng được thiết kế và dàn dựng kỹ lưỡng, quy mô. Hầu hết các cảnh trí mặt ngoài cũng như nội thất đều được chọn lựa, sắp xếp phù hợp với bối cảnh và ko khí của câu chuyện, tạo ấn tượng vừa lặng trầm bí ẩn, vừa xôn xang biến động. Đạo cụ phần lớn tương thích với khung cảnh sống của nhân vật. Trang phục phù hợp với nhỏ người cùng thời đại, góp phần tạo ra bộ mặt riêng rẽ mà truyện phim quy định. Người xem ấn tượng với những trộn dàn cảnh lớn: cảnh đám đông di chuyển và trồng cây gạo cổ thụ tại vị trí chủ ấp yêu thương cầu, cảnh hàng loạt lu rượu được chôn cất, sau đó bị đào lên, đập phá chảy tành; rồi cảnh thả đèn trời, cảnh diễn tuồng đậm sắc thái văn hóa dân gian.

Nghệ thuật tạo hình đóng vai quan lại trọng vào việc hình thành phong cách thể hiện bộ phim. Nhà cù phim đã chọn phương pháp đặt máy tảo theo phương thức chủ quan, với điểm nhìn trực diện để mô tả trực tiếp, kể câu chuyện từ phía bên trong bằng hình thức tự sự -- lấy phương thức thổ lộ, giãi bày làm phương tiện tiếp cận người thưởng thức. Do không gian thu hình của bộ phim luôn thay đổi, dẫn đến sự gắng đổi bắt buộc đối với thuật diễn xuất cũng sự như cụ đổi khó tránh khỏi đối với các cỡ cảnh; khiến hình thành một phong cách diễn đạt khá linh hoạt, không gò bó. Xuất hiện nhiều khuôn hình đẹp, cân nặng xứng độ đậm nhạt và độ tương phản, g